Nguy cơ, phổ và đặc điểm của ung thư vú (Phần 2)
6. Nguy cơ ung thư tử cung
Điểm chính:
- Nguy cơ ung thư tử cung dịch huyết thanh có thể tăng ở những người mang gen BRCA1 sử dụng tamoxifen. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng trái chiều về chủ đề này.
Một số báo cáo cho thấy tỷ lệ mắc ung thư tử cung tăng ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA1/2, trong khi những báo cáo khác không xác nhận nguy cơ mắc ung thư tử cung thanh dịch tăng cao.
Một nghiên cứu triển vọng trên 857 phụ nữ cho thấy bất kỳ tỷ lệ mắc ung thư tử cung tăng nào dường như đều ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA1 sử dụng tamoxifen; điều này đã được cùng nhóm xác nhận trong một nghiên cứu sau đó trên 4.456 người mang biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2.
Ngay cả khi sử dụng tamoxifen, nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung cũng nhỏ, với nguy cơ tích lũy trong 10 năm là 2%. Ngoài ra, việc sử dụng tamoxifen hiện có thể được giảm thiểu, với các lựa chọn raloxifene (không làm tăng nguy cơ ung thư tử cung) và chất ức chế aromatase để phòng ngừa ung thư vú ở phụ nữ sau mãn kinh.
7. Nguy cơ ung thư vú ở nam giới
Nam giới có biến thể gây bệnh BRCA2 và ở mức độ thấp hơn là biến thể gây bệnh BRCA1 có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, với nguy cơ suốt đời lần lượt từ 5% đến 10% và 1% đến 2%.
Với bệnh ung thư vú, đại đa số gặp ở phụ nữ, nhưng vẫn có tỷ lệ nhỏ nam giới mắc phải
8. Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt
Những điểm chính:
- Người mang gen BRCA2 có nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt cao gấp bảy lần so với những người trong cộng đồng nói chung.
- Ung thư tuyến tiền liệt liên quan đến BRCA2 có khả năng tiến triển nhanh hơn so với ung thư tuyến tiền liệt lẻ tẻ.
Nam giới mang biến thể gây bệnh BRCA2 và ở mức độ thấp hơn là biến thể gây bệnh BRCA1 có nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt cao hơn khoảng ba đến bảy lần. Ung thư tuyến tiền liệt liên quan đến BRCA2 cũng có vẻ hung hãn hơn so với ung thư tuyến tiền liệt lẻ tẻ.
9. Nguy cơ ung thư tuyến tụy
Điểm chính:
- Nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy suốt đời ở những người mang gen BRCA2 được ước tính là từ 3% đến 5%, trong khi nguy cơ thấp hơn ở những người mang gen BRCA1.
Các nghiên cứu về ung thư tuyến tụy gia đình (FPC) và loạt ung thư tuyến tụy không được chọn lọc cũng đã hỗ trợ mối liên quan với BRCA2 và ở mức độ thấp hơn là BRCA1. Nhìn chung, có vẻ như từ 3% đến 15% các gia đình có FPC có thể có các biến thể gây bệnh BRCA2 dòng mầm, với nguy cơ ung thư tuyến tụy tăng lên khi các cá nhân có nhiều người thân bị ảnh hưởng hơn.
Tương tự như vậy, các nghiên cứu về ung thư tuyến tụy không được chọn lọc đã báo cáo tần suất biến thể gây bệnh BRCA2 từ 3% đến 7%, với những con số này lên tới 10% ở những cá nhân có nguồn gốc AJ.
Nguy cơ ung thư tuyến tụy suốt đời ở những người mang BRCA2 được ước tính là 3% đến 5%, so với nguy cơ ước tính suốt đời là 0,5% ở độ tuổi 70 ở nhóm chung dân số.
Một nghiên cứu lớn, đơn lẻ trên hơn 1.000 người mang biến thể gây bệnh đã phát hiện ra rằng nguy cơ ung thư tuyến tụy tăng gấp 21 lần ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA2 và nguy cơ tăng gấp 4,7 lần ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA1 , so với tỷ lệ mắc bệnh ở dân số nói chung.
10. Nguy cơ ung thư hắc tố
U hắc tố là một loại ung thư khác có liên quan đến các biến thể gây bệnh BRCA2 trong một số nghiên cứu, nhưng không phải tất cả. Không rõ liệu các biến thể gây bệnh BRCA1 và BRCA2 có làm tăng nguy cơ mắc u hắc tố hay không dựa trên bằng chứng hiện tại.
Đột biến gen BRCA1 và BRCA2 là nguy cơ hàng đầu gây ung thư vú
11. Các nguy cơ ung thư khác
Tổng hợp lại, không có đủ dữ liệu để hỗ trợ nguy cơ ung thư đại trực tràng (CRC) tăng lên ở những người mang gen BRCA1 và BRCA2 . Do đó, tại thời điểm này, những người mang gen BRCA1 gây bệnh nên tuân thủ các khuyến nghị sàng lọc dân số đối với CRC.
Ngày càng có nhiều bằng chứng ủng hộ mối liên quan giữa các biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2 và nguy cơ ung thư dạ dày tăng cao. Xét nghiệm bảng đa gen của hơn 80 gen (gen hội chứng ung thư di truyền, bao gồm ung thư dạ dày di truyền) ở 34 bệnh nhân ung thư dạ dày đã chứng minh rằng sáu bệnh nhân có biến thể gây bệnh (17,6%), một nửa trong số đó là biến thể gây bệnh ở BRCA1/BRCA2.
Trong một nghiên cứu tương tự, 515 bệnh nhân ung thư thực quản dạ dày đã tham gia xét nghiệm di truyền để tìm kiếm các biến thể gây bệnh ở tối đa 88 gen hội chứng ung thư di truyền.
Kết quả chỉ ra rằng 48 trong số 243 bệnh nhân ung thư dạ dày (19,8%) có biến thể gây bệnh ở một trong những gen này. 12 bệnh nhân mắc ung thư dạ dày hoặc ung thư nối dạ dày thực quản có biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2. Tỷ lệ mắc 26 loại ung thư trong một nhóm gồm 3.184 gia đình BRCA1 và 2.157 gia đình BRCA2 đã được so sánh với tỷ lệ mắc các loại ung thư này trong dân số nói chung và được ghép theo độ tuổi, quốc gia, nhóm tuổi sinh và RR (tương đương với tỷ lệ mắc bệnh chuẩn hóa). RR phát triển ung thư dạ dày lần lượt là 2,17 và 3,69 ở những người mang BRCA1 và BRCA2.
Hơn nữa, những người mang BRCA2 ở nữ có RR là 6,89 khi phát triển ung thư dạ dày, trong khi những người mang BRCA2 ở nam có RR là 2,76 khi phát triển ung thư dạ dày.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng ung thư dạ dày ở những bệnh nhân có biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2 có các dấu hiệu đột biến phù hợp với các khiếm khuyết trong quá trình sửa chữa đứt gãy mạch đôi DNA (thông qua tái tổ hợp tương đồng). Điều này cung cấp khả năng hợp lý về mặt sinh học cho mối liên hệ giữa ung thư dạ dày và các biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2.
Ngược lại, một phân tích tổng hợp của năm nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa các biến thể gây bệnh BRCA1 và nguy cơ ung thư dạ dày tăng cao (RR, 1,70; 95% CI, 0,93–3,09).
Tuy nhiên, phân tích tổng hợp này đã tìm thấy mối liên hệ giữa các biến thể gây bệnh BRCA2 và nguy cơ ung thư dạ dày tăng cao trong sáu nghiên cứu (RR, 2,15; 95% CI, 1,98–2,33. Xét về tổng thể, những dữ liệu này cho thấy có mối liên hệ giữa các biến thể gây bệnh BRCA2 và nguy cơ ung thư dạ dày và mối liên hệ có thể có giữa các biến thể gây bệnh BRCA1 và nguy cơ ung thư dạ dày. Hiện tại, việc sàng lọc ung thư dạ dày không được chỉ định cho những người mang gen BRCA1/BRCA2.
Hai gen BRCA1 và BRCA2 có tác dụng bảo vệ cơ thể khỏi căn bệnh ung thư nhất định
12. Các công cụ điều chỉnh rủi ro
Sự thay đổi quan sát được về độ thâm nhập đã dẫn đến giả thuyết rằng các yếu tố di truyền và/hoặc môi trường khác làm thay đổi nguy cơ ung thư ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA1/2. Ngày càng có nhiều tài liệu xác định các yếu tố di truyền và không di truyền góp phần vào sự thay đổi quan sát được về tỷ lệ ung thư ở những gia đình có biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2.
12.1. Chất biến đổi gen
Các nghiên cứu lớn nhất điều tra các chất biến đổi gen của nguy cơ ung thư vú và buồng trứng cho đến nay đến từ CIMBA, một nỗ lực quốc tế lớn với dữ liệu kiểu gen và kiểu hình trên hơn 15.000 người mang BRCA1 và 10.000 người mang BRCA2.
Sử dụng phân tích gen ứng viên và các nghiên cứu liên kết trên toàn bộ hệ gen, CIMBA đã xác định được một số vị trí liên quan đến cả nguy cơ tăng và giảm của ung thư vú và ung thư buồng trứng.
Một số biến thể nucleotide đơn (SNV) có liên quan đến các phân nhóm ung thư vú, chẳng hạn như trạng thái HR và HER2/neu. Tất cả các rủi ro được truyền đều khiêm tốn nhưng nếu hoạt động theo cách nhân lên có thể tác động đáng kể đến nguy cơ ung thư ở những người mang biến thể gây bệnh BRCA1/BRCA2. Hiện tại, các bác sĩ lâm sàng không xét nghiệm SNV và hiện chúng không được sử dụng trong quá trình ra quyết định lâm sàng.
12.2. Các yếu tố lối sống, yếu tố sinh sản và các yếu tố khác làm thay đổi nguy cơ ung thư
a. Các yếu tố lối sống
- Chế độ ăn uống: Chế độ ăn uống không lành mạnh có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Một chế độ ăn giàu thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm nhiều chất béo bão hòa và đường có thể dẫn đến tăng cân và béo phì, điều này liên quan đến nguy cơ cao hơn mắc ung thư vú. Theo American Institute for Cancer Research (AICR), việc tăng cường rau xanh, trái cây, và thực phẩm giàu chất xơ có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
- Hoạt động thể chất: Thiếu hoạt động thể chất là một yếu tố nguy cơ đã được chứng minh. Theo Cancer Research UK, phụ nữ ít vận động có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn so với những người tập thể dục thường xuyên. Hoạt động thể chất giúp duy trì cân nặng hợp lý và cân bằng nội tiết tố, từ đó giảm nguy cơ ung thư.
- Sử dụng rượu: Uống rượu nhiều có liên quan đến nguy cơ cao hơn mắc ung thư vú. Theo National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism (NIAAA), việc tiêu thụ rượu trên mức khuyến nghị có thể làm tăng nồng độ estrogen trong cơ thể, một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư vú.
- Hút thuốc: Mặc dù hút thuốc lá ít liên quan trực tiếp đến ung thư vú so với các loại ung thư khác, nhưng nó vẫn có thể làm tăng nguy cơ. Theo American Cancer Society, hút thuốc có thể gây ra các thay đổi tế bào có thể dẫn đến ung thư, bao gồm ung thư vú.
b. Các yếu tố sinh sản
- Tuổi có kinh nguyệt: Bắt đầu có kinh nguyệt sớm (trước tuổi 12) có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Theo Breast Cancer Research Foundation (BCRF), việc có kinh nguyệt sớm kéo dài thời gian tiếp xúc với hormone estrogen, làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
- Tuổi kết hôn và sinh con: Phụ nữ có thai lần đầu ở tuổi muộn (trên 30) hoặc không có con có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Theo National Cancer Institute (NCI), việc sinh con trước tuổi 30 có thể giảm nguy cơ ung thư vú nhờ việc làm giảm số lần tiếp xúc với hormone estrogen.
- Cho con bú: Cho con bú có thể giảm nguy cơ ung thư vú. American Cancer Society cho biết, việc cho con bú trong ít nhất 6 tháng có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú nhờ việc giảm số lần chu kỳ kinh nguyệt và nồng độ estrogen trong cơ thể.
- Mãn kinh: Bắt đầu mãn kinh muộn hơn (sau 55 tuổi) cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Theo Cancer Research UK, việc tiếp xúc với estrogen trong thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Việc thực hiện lối sống lành mạnh và chăm sóc sức khỏe thường xuyên giúp giảm nguy cơ mắc bệnh
c. Các yếu tố khác
- Cân nặng và béo phì: Thừa cân hoặc béo phì, đặc biệt là sau mãn kinh, có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Theo World Health Organization (WHO), mỡ thừa trong cơ thể có thể dẫn đến mức độ estrogen cao hơn, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư vú.
- Tiền sử gia đình: Mặc dù đây là một yếu tố di truyền, nhưng tiền sử gia đình mắc ung thư vú có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh. Phụ nữ có người thân trực hệ mắc ung thư vú có nguy cơ cao hơn, mặc dù việc thay đổi lối sống lành mạnh có thể giúp giảm nguy cơ.
- Sử dụng liệu pháp hormone: Việc sử dụng liệu pháp hormone thay thế (HRT) trong thời gian dài có liên quan đến nguy cơ ung thư vú cao hơn. Theo American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG), phụ nữ sử dụng HRT nên thảo luận với bác sĩ về các nguy cơ tiềm ẩn.
- Ô nhiễm môi trường: Một số nghiên cứu cho thấy ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tiếp xúc với hóa chất độc hại, có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Theo Environmental Working Group (EWG), việc tiếp xúc với hóa chất độc hại trong môi trường sống có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh.
13. Tương quan kiểu gen - kiểu hình
Một số mối tương quan kiểu gen - kiểu hình đã được xác định trong cả hai họ biến thể gây bệnh BRCA1 và BRCA2 . Không có nghiên cứu nào có đủ số lượng cá thể dương tính với biến thể gây bệnh để đưa ra kết luận chắc chắn và các phát hiện có lẽ chưa được thiết lập đầy đủ để sử dụng trong đánh giá và quản lý rủi ro của từng cá nhân. Các nghiên cứu đã xác định các vùng của ung thư buồng trứng và các vùng của ung thư vú trong BRCA1 và BRCA2.
Dữ liệu từ CIMBA cũng tìm thấy các vùng của ung thư vú và các vùng của ung thư buồng trứng ở cả hai gen. Dữ liệu bao gồm 19.581 người mang biến thể gây bệnh BRCA1 và 11.900 người mang biến thể gây bệnh BRCA2, đã được phân tích để ước tính tỷ lệ nguy cơ (HR) đối với ung thư vú và ung thư buồng trứng theo loại biến thể gây bệnh, chức năng và vị trí nucleotide.
Tỷ lệ mắc ung thư vú, tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng và độ tuổi khi chẩn đoán khác nhau tùy theo lớp biến thể. Cần đánh giá thêm các phát hiện này trước khi chúng có thể được chuyển thành thực hành lâm sàng.
Trong một nghiên cứu của Úc về 122 gia đình có biến thể gây bệnh trong BRCA1 , các biến thể sắp xếp lại bộ gen lớn có liên quan đến các đặc điểm rủi ro cao hơn ở ung thư vú và buồng trứng, bao gồm độ tuổi trẻ hơn khi chẩn đoán ung thư vú và tỷ lệ mắc ung thư vú hai bên cao hơn.
Các nghiên cứu về độ thâm nhập đối với những người mang các biến thể cá nhân cụ thể thường không đủ lớn để cung cấp ước tính ổn định, nhưng nhiều nghiên cứu về các biến thể gây bệnh của gen sáng lập AJ đã được tiến hành. Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phân tích tập hợp con các gia đình có một trong các biến thể gây bệnh của gen sáng lập AJ từ các phân tích tổng hợp lớn hơn của họ và phát hiện ra rằng độ thâm nhập ước tính đối với các biến thể gây bệnh riêng lẻ rất giống với các ước tính tương ứng trong số tất cả những người mang.
Một nghiên cứu sau đó về 4.649 phụ nữ có biến thể gây bệnh BRCA đã báo cáo rằng RR thấp hơn đáng kể đối với ung thư vú ở những người có biến thể BRCA2 6174delT so với những người có các biến thể BRCA2 khác (HR, 0,35; khoảng tin cậy 95% [CI], 0,18–0,69).
Một nghiên cứu khác từ nhóm CIMBA đã xem xét kiểu hình của những phụ nữ mắc ung thư vú có các biến thể gây bệnh thừa hưởng ở cả BRCA1 và BRCA2. Phần lớn phụ nữ trong nghiên cứu này mang các biến thể gây bệnh AJ chung. So với những phụ nữ dị hợp tử đối với cùng một biến thể gây bệnh (nhóm đối chứng dị hợp tử), những phụ nữ dị hợp tử đối với cả BRCA1 và BRCA2 có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc ung thư vú hơn những phụ nữ là nhóm đối chứng dị hợp tử và có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng hơn những phụ nữ là nhóm đối chứng dị hợp tử với BRCA2 , nhưng không phải những người có biến thể gây bệnh BRCA1.
Tương tự như vậy, độ tuổi khởi phát ung thư vú trẻ hơn ở những người mang cả hai biến thể so với những phụ nữ là nhóm đối chứng dị hợp tử với BRCA2 , nhưng không phải những người có biến thể gây bệnh BRCA1. Tỷ lệ phụ nữ có cả hai biến thể và ung thư vú dương tính với ER và dương tính với PR nằm ở mức trung gian giữa nhóm đối chứng dị hợp tử với biến thể gây bệnh BRCA1 và những người có biến thể gây bệnh BRCA2.
Các tác giả kết luận rằng những phụ nữ thừa hưởng biến thể gây bệnh ở cả BRCA1 và BRCA2 có thể được điều trị tương tự như những người chỉ mang biến thể BRCA1.
Tóm lại, ung thư vú là một bệnh lý phức tạp và đa dạng với nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh và đặc điểm của nó. Việc hiểu rõ các yếu tố nguy cơ, phổ phân bố của bệnh và các đặc điểm chính không chỉ giúp chúng ta nhận diện và phòng ngừa bệnh hiệu quả hơn mà còn hỗ trợ trong việc phát triển các phương pháp điều trị tối ưu. Nếu bạn đang tìm kiếm một giải pháp toàn diện cho căn bệnh này, hãy đến với Mani Healing Care - Trung tâm phục hồi hệ bạch huyết để được tư vấn và đặt lịch chăm sóc.